Sư chính trị (Kết)

Mark Moyar | Trần Hải dịch

TCTQ

DCVOnline | Mark Moyar là tác giả của Triumph Forsaken – The Vietnam War 1954-1965 (Cambridge University Press 2006). Bài viết sau đây do Trần Hải Dịch từ “Political Monks: The Militant Buddhist Movement during the Vietnam War” của Mark Moyar, đăng trên Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784.

Phong trào Phật tử tranh đấu trong cuộc chiến Việt Nam

(Tiếp theo phần II)

Thượng tọa Thích Huyền Quang tại Lễ khai mạc Đại hội Phật Giáo Thống Nhất. Ngồi hàng đầu là ĐT Dương Văn Minh và ĐS Mỹ Henry Cabot Lodge1964. Nguồn: thuvienhoasen.org
Thượng tọa Thích Huyền Quang tại Lễ khai mạc Đại hội Phật Giáo Thống Nhất. Ngồi hàng đầu là ĐT Dương Văn Minh và ĐS Mỹ Henry Cabot Lodge, 1964. Nguồn: thuvienhoasen.org

Các viên chức toà đại sứ Mỹ tiếp tục tin rằng hầu hết các lãnh đạo Phật giáo cao nhất vẫn chống cộng, nhưng ngày càng nhiều người trong số họ nghĩ rằng ít nhất thì Trí Quang cũng đang cộng tác với cộng sản. Các chuyên gia ở toà đại sứ đồng ý rằng các lãnh đạo Phật giáo thấp hơn, nhất là những người thân thiết với Trí Quang, là đồng hội đồng thuyền với Việt cộng. Nổi bật nhất trong đám này là Thích Huyền Quang, Tổng Thư ký Viện Hoá đạo và là bạn thân của Trí Quang. Nhiều người cả trong lẫn ngoài phong trào Phật giáo tranh đấu đã tố cáo ông này là có cảm tình với cộng sản. Phụ tá của Huyền Quang là Trần Đính cũng đã bị nhận diện như thế.[92]

Thật vậy, vào lúc đó cộng sản đang gia tăng các nỗ lực xâm nhập các tổ chức chống đối. Một lãnh đạo Việt cộng sau này đã tiết lộ rằng cộng sản đã đưa ra những kế hoạch mới, dùng những tổ chức được coi là phi cộng sản để tuyên truyền chống Mỹ và chính quyền. Theo Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, mạng lưới cộng sản bí mật trong các đô thị đã lên cao chưa từng có. Trong một nghị quyết vào tháng Ba năm 1965, uỷ ban tuyên bố, “Phong trào đô thị đã tăng trưởng mạnh ở tất cả các đô thị lớn và hấu hết các thành phố nhỏ.”[93]

Ngày 18 tháng Một, khác với lập trường cứng rắn mọi khi, Hương tìm cách xoa dịu phía Phật giáo bằng cách sa thải hai bộ trưởng bị nhóm Phật giáo tranh đấu chỉ trích trước đó.[94] Nhưng cử chỉ nhân nhượng này cũng không mang lại cho Hương điều gì tốt đẹp hơn so với Diệm hoặc Khánh. Tại một buổi họp báo hai ngày sau đó, Trí Quang và một số thuộc hạ tuyên bố họ sẽ bắt đầu một cuộc tuyệt thực cho đến khi Hương từ chức.[95] Thiện Minh, đồng chí thân cận nhất của Trí Quang trong phong trào, phụ hoạ thêm rằng nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình.”[96] Đối với dân chúng Nam Việt Nam, hành động kêu gọi hoà bình công khai được hiểu là tấn công chính quyền Sài Gòn vì đó là cách cộng sản thường tuyên truyền để làm suy yếu quyết tâm tiếp tục cuộc chiến của chính phủ Nam Việt Nam. Vì Hà Nội mạnh hơn về quân sự, một sự dàn xếp hoà bình hiển nhiên sẽ có lợi cho Hà Nội và có thể sẽ liên quan đến việc người Mỹ rút quân. Trí Quang hứa rằng lãnh đạo Phật giáo sẽ không tổ chức biểu tình cho đến sau Tết, và Tâm Châu cũng hứa là không có biểu tình trong thời gian tuyệt thực.[97]

Vẫn theo thông lệ, các Phật tử tranh đấu đã nhanh chóng nuốt lời hứa. Dưới sự lãnh đạo của Trí Quang và Tâm Châu, Phật tử khởi xướng một chiến dịch phản đối bài Mỹ một cách điên cuồng vào ngày 23 tháng Một. Các tuyên cáo của họ cũng lộng ngôn như những lần trước. Ở Sài Gòn, Phật tử và sinh viên biểu tình với số khá đông trước toà đại sứ Mỹ và tại thư viện Abraham Lincoln thuộc Phòng Thông tin Hoa Kỳ. Những người biểu tình tố cáo chính quyền đàn áp Phật giáo, chế diễu Hương là “tay sai” của Talyor và đòi Talylor phải rời Việt Nam. Các tăng ni mang những biểu ngữ đòi hoà bình. Sau khi đám biểu tình đập cửa và ném đá tấn công cảnh sát dã chiến, Hương điều lính dù đến giải tán bằng lựu đạn cay và dùi cui. Ở Huế, 5.000 người biểu tình đập phá thư viện hai tầng của Phòng Thông tin Văn hoá Hoa Kỳ, sau đó đốt 8.000 quyển sách. Cộng sự của Trí Quang là Huyền Quang ra một thông cáo cho rằng, “chính sách của đại sứ Mỹ và Hương, tay sai của đại sứ Mỹ, là ép các lãnh đạo Phật giáo đến chết và tiêu diệt Phật giáo Việt Nam.” Ở Đà Nẵng, Quảng Trị, và Nha Trang, Phật tử tranh đấu vận động các hàng quán không phục vụ người Mỹ. Nghe theo lời kêu gọi tử vì đạo của các lãnh tụ Phật giáo, một ni cô tự thiêu ở Nha Trang và một nhà sư tự chém huỷ mình trong một cuộc biểu tình ở Sài Gòn. Những tên côn đồ đội lốt Phật tử đốt cháy một người Công giáo tại Sài Gòn.[98]

Thượng tọa Tích Thiện Minh (1921-1978). Nguồn: ONtheNet
Thượng tọa Thích Thiện Minh (1921-1978): “…nếu Hương không bị loại bỏ, Phật giáo sẽ bắt đầu “kêu gọi hoà bình””. Nguồn: ONtheNet

Ở các tỉnh phía bắc, Khánh và đồng loã chính là Tướng Nguyễn Chánh Thi, đã không làm gì để kiểm soát đám đông và bảo vệ tài sản của Việt Nam và Mỹ. Họ cho rằng hỗn loạn sẽ làm sụp đổ chính quyền Hương và họ sẽ nắm quyền.[99] Khi những cuộc bạo loạn đang tiếp diễn, Khánh lại đi dàn xếp với các lãnh tụ Phật giáo. Quân đội sẽ nắm chính quyền, loại bỏ Hương, tôn trọng “tự do tôn giáo” và thanh trừng những kẻ thân Diệm mà những đợt trước chưa loại bỏ hết. Để đáp lại, Phật giáo sẽ ủng hộ chính quyền mới ít nhất trong hai năm, và sẽ đưa Trí Quang, Tâm Châu và Hộ Giác ra ngoại quốc. [100]

Khi Alexis Johnson biết được kế hoạch này, ông cảnh cáo Khánh rằng Mỹ muốn quân đội ủng hộ chính quyền Hương. Khánh chỉ lờ đi. Sáng ngày 27 tháng Một, Khánh cầm đầu một cuộc lật đổ không bạo loạn với sự ủng hộ của Tướng Thi và Tư lệnh Không quân Kỳ. Khánh thuyết phục Hội đồng Quân lực để Khánh nắm chính quyền, với lời đảm bảo sẽ rời bỏ chính trường khi một Hội đồng cố vấn 20 người chọn được một quốc trưởng dân sự. Tuy nhiên, một số sỹ quan cấp cao chấp nhận sự sắp xếp này vì họ nghĩ là nó sẽ phản tác dụng, dẫn đến việc loại bỏ Khánh và dẹp loạn Phật tử tranh đấu.[101]

Ngay từ ngày đầu của cuộc đảo chính, Trí Quang đã âm mưu tìm cách hất cẳng Khánh và chiều hôm sau ông ta bắt đầu nỗ lực đó.[102] Bước đầu tiên là ông ta thông báo cho các tướng rằng Phật giáo sẽ không thực hiện các lời hứa là không dính đến chính trị, ủng hộ chính quyền, và ba sư đi ngoại quốc. Các lời hứa này không còn giá trị vì, theo các Phật tử tranh đấu, quân đội đã hứa lật đổ chính quyền vào ngày 25 hoặc 26 mà vẫn chưa thực hiện khi đã sang ngày 27 tháng Một. Ngoài tính lố bịch, lập luận này còn đầy trí trá vì Trí Quang đã biết trước là cuộc lật đổ sẽ không xảy ra cho đến ngày 27 tháng Một.[103] Hành động lật lọng này là một trong những điều tồi tệ nhất mà phía Phật tử tranh đấu đã làm cho đến lúc đó, và nó củng cố quan điểm của những kẻ dèm pha rằng các lãnh tụ Phật giáo tranh đấu là những kẻ dối trá chỉ muốn huỷ hoại chính quyền hơn là tiêu diệt Việt cộng. Việc chối bỏ những hứa hẹn làm một số tướng lãnh giận điên; một người đã nói với người Mỹ rằng nếu Khánh không đối mặt với Viện Hoá đạo ngay lúc này, “mạng sống ông ta sẽ bị đe doạ.”[104]

British PATHÉ, Unrest South Vietnam

Khánh đã không đối đầu với phía Phật giáo, thay vào đó lại nhượng bộ các đòi hỏi trong khi tìm cách bám lấy quyền lực. Khánh thuyên chuyển tướng Phạm Văn Đổng là tổng trấn vùng thủ đô đi làm tư lệnh Quân đoàn II, như thế đẩy ông này xa rời trung tâm quyền lực và không còn ảnh hưởng gì đến chính trị. Phạm Văn Đổng đã làm Phật tử tranh đấu khó chịu vì ông đã hoàn thành nhiệm vụ dẹp bỏ các cuộc bạo loạn và biểu tình tại Sài Gòn.[105]

Một lần nữa, phía Phật giáo chẳng làm gì để đáp lại lòng tốt của Khánh. Họ muốn chính Phật giáo là kẻ quyết định ai sẽ là người lãnh đạo kế tiếp, và kẻ đó không phải Khánh. Chức vụ cao nhất về tay Bác sĩ Phan Huy Quát, người mà Trí Quang hằng vận động trước đây. Nhiều quan sát viên nghĩ rằng Quát hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Trí Quang. Phần lớn các quan chức khác trong chính quyền cũng là đồng minh của Trí Quang và chống “chủ nghĩa Diệm”, theo ngôn từ của Phật tử tranh đấu, có nghĩa là chống cộng mãnh liệt và không dung túng những hành động phá hoại của phong trào Phật giáo. [106]

Vào ngày 19 tháng Hai, chỉ ba ngày sau khi chính quyền mới lên nắm quyền, một cuộc đảo chính lại xảy ra do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo cầm đầu.[107] Quân đảo chính chiếm đài phát thanh Sài Gòn và phi trường Tân Sơn Nhất nhưng Khánh lại một lần nữa chạy thoát ra Vũng Tàu. Hầu hết các đơn vị trong vùng phụ cận Sài Gòn án binh bất động, không theo phe nào trong cuộc tranh chấp này.[108]

Cũng như đã xảy ra trong cuộc lật đổ ngày 19 tháng Chín, những kẻ cầm đầu tuyên bố cảm phục Diệm và họ muốn có chính phủ gần giống chế độ của Diệm. Trên đài phát thanh, phe đảo chính tuyên bố, “Lodge đã sai khi khuyến khích đảo chính lật đổ Diệm thay vì chấn chỉnh ý đồ lầm lạc này.” Phát và Thảo báo riêng cho Kỳ biết là họ và cộng sự sẽ chấm dứt đảo chính nếu Khánh bị loại bỏ. Ba người này thoả thuận dàn xếp để sau đó quân đảo chính giải tán nhanh tránh sự cố. Hội đồng Quân Lực ra lệnh cho Khánh rời Việt Nam ngay. Sau một nỗ lực không thành để vận động ủng hộ từ các viên chức địa phương, Khánh đồng ý từ chức và đi ngoại quốc.[109]

Khi chính quyền Quát bắt đầu hoạt động, một loạt biện pháp được lòng Trí Quang được thực hiện. Tất cả mọi người bị bắt trước đây trong những cuộc biểu tình chống Hương đều được thả, trong đó một số là cộng sản. Để thoả mãn Trí Quang và ngăn ngừa nội loạn tiếp diễn, Quát và các tướng lĩnh thân cận cho tiến hành một đợt thanh trừng mới. Trong số những nạn nhân có Tướng Phạm Văn Đổng, Đại tá Trần Thanh Bền, Tướng Trần Văn Minh, Đô đốc Chung Tấn Cang, và Tướng Đặng Văn Quang – những người có năng lực nhưng bị Trí Quang chống đối vì họ đã đàn áp biểu tình của Phật tử hoặc đã can thiệp vào kế hoạch của ông. Quát và đồng minh của mình phân tán quyền lực trong quân đội nhằm ngăn chặn việc một sĩ quan nào đó thâu tóm quá nhiều quyền hành.[110]

Vì những cuộc thanh trừng này, lãnh đạo quân đội trở nên manh mún và nhờ Phật giáo ủng hộ, chính quyền Quát ít bị chống đối hơn so với các chính quyền trước. Vào đầu tháng Tư, CIA đã có thể báo cáo rằng, “Đây là lần đầu tiên sau khi lật đổ chế độ Diệm, tình trạng xuống dốc không phanh của tình hình chính trị có vẻ đã bị chặn đứng.” Tuy nhiên, sự ổn định này đã phải trả giá đắt. Những cuộc thanh trừng của chính quyền và nhượng bộ Phật giáo đã làm yếu kém trầm trọng tình trạng lãnh đạo trong quân đội. Không có lúc nào trong lịch sử 21 năm mà quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu tệ hại như trong thời Quát. Vào ngày 26 tháng Ba tướng Westmoreland nhận định rằng quân lực Nam Việt Nam đã “bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt, và không còn hệ thống chỉ huy kiến hiệu. Quân lực được điều hành bởi các uỷ ban và chính các uỷ ban cũng là những đấu trường đầy âm mưu và tham vọng cá nhân.” [111] Thành tích nghèo nàn của chính quyền Quát chứng minh một sự thực thể hiện rõ ràng trong thời Khánh là một chính quyền bị Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu lũng đoạn sẽ không đủ năng lực và ý chí để duy trì cuộc chiến.

Trong khi Trí Quang và các lãnh đạo của Viện Hoá đạo bày tỏ sự chấp thuận chính quyền của Quát và hạn chế việc gây rối, họ vẫn không chừa các màn phá phách khác. Quảng Liên và năm ba lãnh đạo Phật tử từ Viện Hoá đạo công bố một kế hoạch hoà bình có liên quan đến việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Các chức sắc cao cấp tại Viện Hoá đạo, kể cả Trí Quang, nói với các viên chức toà đại sứ Mỹ rằng họ không đồng ý với Quảng Liên. Tuy vậy, trước những cử toạ khác, họ lại tán thành lập trường của Quảng Liên. Trí Quang nói với tờ Hongkong Standard rằng Hà Nội và Washington nên “bắt đầu thảo luận ngay” để mang lại hoà bình, vì, “chúng tôi đã chịu khổ nhiều rồi, cả về nhân mạng cũng như vật chất.”[112] Khi người Mỹ đến tìm hiểu về bài phỏng vấn này, Trí Quang lại giở chiến thuật thường ngày là nói với người Mỹ rằng ông ta tán thành chính sách của Mỹ. Ông tuyên bố là ông không thực sự ngụ ý là Mỹ phải đàm phán ngay, và rằng thật ra, ông nghĩ là người Mỹ nên trì hoãn đàm phán cho đến khi tình hình quân sự đã được cải thiện.”[113]

Vài tuần sau đó, Trí Quang khuyên Taylor nên bỏ bom Bắc Việt.[114] Trong trường hợp này, có những bằng chứng trực tiếp là lời khuyên này chỉ để duy trì thiện cảm của Mỹ để nhóm Phật tử tranh đấu có thể tiếp tục những hoạt động khuynh đảo chính quyền. Robert Thompson, một chuyên viên lừng danh của Anh về chống phiến loạn ở Mã lai và sau đó là cố vấn cao cấp cho chính quyền Nam Việt Nam, nhớ lại rằng sau khi có lời khuyên này với Taylor, Trí Quang “đến gặp ngay người Pháp để giải thích rằng ông ta chỉ tìm cách giải toả những nghi kỵ của Taylor nhằm rảnh tay thúc đẩy kế hoạch bí mật vì hoà bình dù với bất cứ giá nào.”[115]

Điều làm người ta nghi ngờ hơn nữa về tuyên bố ủng hộ cuộc chiến chống cộng của người Mỹ là một bức thư nhà sư này gửi cho người Mỹ giữa tháng Năm. Trong lá thư, Trí Quang miêu tả người Mỹ như là kẻ gây đau khổ cho Nam Việt Nam chứ không phải là kẻ cứu giúp. Ông ta cáo buộc rằng trong khi người Mỹ “tin tưởng và ngầm chiếu cố người Công giáo một cách thiên kiến,” họ lại “lo lắng và e dè đối với Phật giáo giống như kẻ cai trị đối với dân bản xứ.” Dân chúng Việt Nam nghĩ rằng người Mỹ dùng “người Công giáo để tiêu diệt Phật giáo” và họ “tin chắc rằng tất cả các sự đàn áp đều có sự dàn xếp và đồng ý của người Mỹ.” Người Mỹ sẽ thua, Trí Quang cảnh cáo, trừ khi họ chấm dứt việc thiên vị Công giáo.[116] Những cáo buộc này phi lý, không phải chỉ vì không ai tìm cách tiêu diệt Phật giáo, mà cũng vì cả người Mỹ lẫn chính quyền Nam Việt Nam đều không làm gì ưu đãi Công giáo hơn Phật giáo.

Thủ tướng Phan Huy Quát, 1965. Nguồn: LIFE Magazine
Thủ tướng Phan Huy Quát, 1965. Nguồn: LIFE Magazine

Trong thời Quát, nhiều nhóm mới đòi hoà bình hay trung lập mọc lên ở Nam Việt Nam, và những màn tuyên tuyền gia tăng mạnh. Ngạc nhiên thay, Quát lại lớn tiếng chống những nhóm này. Ông ta tuyên bố, sẽ không có hoà bình hay trung lập cho đến khi miền Bắc chấm dứt việc đưa người và vũ khí vào Nam. Ông tuyên bố rằng chính quyền sẽ dùng “mọi biện pháp để đập tan những thủ đoạn tuyên truyền lừa đảo của cộng sản nhằm đánh lừa công luận, gây rối loạn trong dân chúng, lợi dụng sự cả tin … và tiến hành những thủ đoạn chính trị thậm tệ để thống trị toàn cõi Việt Nam.” Quát sa thải 300 công chức đã ký kiến nghị đòi hỏi đàm phán chấm dứt chiến tranh, Tuy nhiên, Quát đã không đụng đến một ai trong Viện Hoá đạo vận động cho hoà bình hoặc trung lập. Quát thuyết phục Quảng Liên rút lại chương trình trung lập hoá nhưng với cái giá là phải thả tất cả các lãnh đạo phong trào hoà bình có liên hệ với phía Phật giáo.[117] Một khủng hoảng chính trị lại xảy ra ở Sài Gòn vào cuối tháng Năm năm 1965 khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu ngăn chặn kế hoạch của Thủ Tướng Quát thay thế hai bộ trưởng mà cả Quát và người Mỹ đều cho là thiếu khả năng.[118] Sửu làm vậy vì được sự khuyến khích của nhóm chính trị gia Miền Nam và các lãnh đạo Công giáo vì họ không bằng lòng với sự thiên vị nhóm Phật giáo tranh đấu của Quát.[119] Khi khủng hoảng tiếp diễn, Trí Quang bắt đầu rút lập trường ủng hộ Quát, vì Quát đã có thái độ độc lập làm Trí Quang khó chịu. Trong một lần nói chuyện với lãnh sự Mỹ tại Huế, Trí Quang nói là nếu Quát không giải quyết được khủng hoảng hiện thời mà không phải nhượng bộ phía chống đối thì quân đội nên thế chỗ Quát. Rõ ràng Trí Quang lo Quát sẽ nhân nhượng quá độ đối với phía Công giáo và những phe mà Trí Quang không chấp nhận, và rằng Quát sẽ có biện pháp chống lại những kẻ hô hào trung lập. Nếu cần thay Quát, Trí Quang nói rằng vị thủ tướng mới “phải là người có tín ngưỡng.” Người duy nhất mà Trí Quang đề cập là Tướng Thi. “Thi là một Phật tử trên danh nghĩa,” Trí Quang nói, “nhưng ông ta không quan tâm đến tôn giáo,” một nhận định đáng ngờ vì Thi đã liên tục cộng tác với phe Phật tử tranh đấu.[120]

Ngày 9 tháng Sáu, Quát thỉnh cầu các tướng lãnh hoà giải mối bất hoà.[121] Trong một buổi họp với Quát, các tướng đã bộc lộ sự chán ngán về tình trạng bất lực của các chính quyền dân sự. Họ cũng bực bội vì những thanh trừng trong quân đội Nam Việt Nam trong thời Quát, và vì những trận thất bại lớn trong mấy tuần vừa qua. Mất nhuệ khí khi bị các tướng lãnh chỉ trích, Quát đồng ý từ chức và trao quyền lại cho quân đội.[122]

Mọi việc tiến triển như Trí Quang dự liệu cho đến khi lãnh đạo mới được chọn. Các chức vụ cao nhất đã không vào tay Tướng Thi nhưng lại về tay Tướng Kỳ, người trở thành thủ tướng và chủ tịch hành pháp, và Tướng Thiệu chủ tịch uỷ ban lãnh đạo. Các tướng lãnh rõ ràng muốn chấm dứt tình trạng Trí Quang lũng đoạn chính quyền và vì Kỳ và Thiệu quan tâm đến việc chiến đấu chống cộng hơn là thoả hiệp với Phật giáo tranh đấu.

Thái độ này được bộc lộ rất nhanh, khi Kỳ, Thiệu và các tướng quyết định rằng chính quyền mới sẽ bắt đầu bằng “tuần lễ nín thở.” Các hoạt động trong tuần đó gồm việc áp đặt kiểm duyệt, đóng cửa nhiều tờ báo, và đình chỉ các tự do dân sự. Mục tiêu kế tiếp là chuyển giao những tranh cãi chính trị của các chính khách Sài Gòn về một “biệt thự nhiều cổ thụ,” nơi họ có thể “thảo luận và soạn thảo các chương trình ủng hộ chính quyền.” Về vấn đề chống đối từ các nhóm tôn giáo và chính trị, họ quyết tâm “lờ đi với quy định rằng kẻ làm loạn sẽ bị bắn.” Các tướng cũng đưa ra các biện pháp để tổ chức dân chúng thành các lực lượng bán quân sự. Tiếp sức cho chính quyền dân sự bằng sự xốc vác và quyết đoán, các tướng lãnh đạo đã không chần chừ thực hiện ngay các kế hoạch này.[123]

Trí Quang hẳn đã không phản đối mạnh việc chỉ định Kỳ và Thiệu và tin rằng ông ta có thể khuynh đảo họ cũng như với Khánh. Lúc đầu, Trí Quang tuyên bố ủng hộ chính quyền mới. Tuy nhiên, chỉ trong một tháng, khi chính quyền mới cho thấy những dấu hiệu đầy triển vọng, Trí Quang lại đòi loại bỏ. Ông tố cáo Thiệu là dư Đảng Cần lao – cho dù Thiệu đã đóng vai trò quan trọng khi lật đổ Diệm – và còn buộc Thiệu là có “khuynh hướng phát xít.” Trí Quang cáo buộc rằng “những dư Đảng Cần lao chung quanh Kỳ đã phá hoại các chương trình của Kỳ.” Cũng như trước, những cáo buộc chung chung của Trí Quang vượt quá xa những điều cụ thể. Khi bị yêu cầu đưa ra ví dụ về việc phá sản chương trình của Kỳ, Trí Quang chỉ cóthể đưa ra câu trả lời kỳ quái như: “Quyết định của Kỳ bắn tất cả những kẻ đầu cơ, đơn giản là biện pháp đó không thể thực hiện được.”[124]

Trù trái: Bọ trưởng QP Mỹ McManara, Đại sứ Mỹ, Cabot Lodge, CT Ủy ban Lãnh đạo QG, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, CT Ủy ban Hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. (Saigon, 16 tháng 7, 1965). Image by © Bettmann/CORBIS
Trù trái: Đại sứ Mỹ, Cabot Lodge, Bộ trưởng QP Mỹ McManara, CT Ủy ban Lãnh đạo QG, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, CT Ủy ban Hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ. (Saigon, 16 tháng 7, 1965). Image by © Bettmann/CORBIS

Trí Quang tiếp tục đưa ra những cáo buộc chính quyền vô căn cứ và những yêu sách không thể thoả mãn nổi – hai điều này cộng lại thành vũ khí chủ yếu của ông ta làm suy yếu chính quyền – cho đến cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1966. Khi cuộc khủng hoảng này bùng nổ, các Phật tử nổi loạn gây rắc rối nhiều đến nỗi chính quyền phải dùng quân đội để dẹp bằng bạo lực, một lần cho xong. Kỳ đày Trí Quang về một tịnh thất miền núi. Chính quyền cuối cùng đã trực diện đối đầu Phật tử tranh đấu và đạt kết quả tốt. Sẽ không bao giờ còn chuyện Phật giáo tạo rắc rối chính trị cho chính quyền Nam Việt Nam.

Từ thời Diệm cho đến khủng hoảng Phật giáo năm 1966, Trí Quang và nhóm Phật tử tranh đấu đã theo đuổi chiến lược giống nhau. Họ tìm cách làm suy yếu chính quyền qua biểu tình công khai và đòi hết nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Bảo vệ tự do tôn giáo không bao giờ là một trong những mục đích chính bởi vì tự do tôn giáo của họ không bao giờ bị đe doạ. Thay vào đó, điều mà họ muốn là ưu thế chính trị. Một số Phật tử tranh đấu muốn chính quyền thiên vị Phật giáo so với các nhóm khác trong xã hội Nam Việt Nam, trong khi một số khác bí mật thông đồng mở đường cho một chính quyền cộng sản. Nếu quân đội Nam Việt Nam không thành công trong việc chống lại Phật tử tranh đấu vào năm 1965 và dẹp tan nhóm này vào năm 1966, có khả năng nhóm Phật tử tranh đấu sẽ lái chính quyền về phe cộng sản, vì người cầm đầu phong trào này, Thích Trí Quang, hoặc là đồng Hội đồng thuyền với cộng sản hay là vì tự huyễn hoặc rằng mình có thể ngăn chặn cộng sản mà không cần đến một chính quyền vững mạnh, thân Mỹ.

Những thành công chính trị của phong trào Phật giáo tranh đấu tuỳ thuộc vào thành phần lãnh đạo của chính quyền Sài Gòn và thái độ của Mỹ. Sau một loạt những nhượng bộ vô hiệu, Ngô Đình Diệm chấm dứt nhân nhượng vì rõ ràng là các nhượng bộ đã không làm hài lòng các Phật tử. Ông đàn áp phong trào bằng cách đóng cửa chùa và bắt giữ các nhân vật chủ chốt, nhưng thắng lợi này phù du vì nó lại thúc đẩy người Mỹ ủng hộ việc lật đổ Diệm. Nguyễn Khánh cho phép chống đối chính quyền công khai và dành nhiều thời giờ nhượng bộ các Phật tử, nhưng những kết quả biện pháp này mang lại chỉ là sự suy yếu của các lực lượng chống cộng và mở đường cho những phản đối, yêu sách mới từ phía Phật giáo tranh đấu. Trần Văn Hương chọn sách lược của Diệm hơn là cách của Khánh, không nương nhẹ các hành vi bạo loạn hay đáp ứng yêu sách của Phật giáo. Chính sách này rõ ràng có triển vọng thành công hơn và người Mỹ lúc này cũng dễ thuận theo hành động cứng rắn. Tuy nhiên, Hương không thể thực thi trọn vẹn chính sách này vì Khánh đã lật ông.

Ảnh hưởng của phong trào Phật giáo tranh đấu lên tột đỉnh khi Phan Huy Quát lãnh đạo đất nước. Quát làm mọi chuyện Phật giáo muốn trong phần lớn thời gian cầm quyền. Hành động của Quát làm hiệu năng chống cộng của Nam Việt Nam xuống thấp chưa từng có, khẳng định bài học từ nhiệm kỳ của Khánh rằng hiệu quả chiến đấu tỷ lệ nghịch với việc đáp ứng các đòi hỏi của Phật giáo tranh đấu.

Lý do phản biện chính yếu mà Khánh và những người khác đưa ra để không dùng phương pháp của Diệm đối với Phật tử tranh đấu là sợ làm quần chúng Phật tử xa lánh đến độ làm mất khả năng duy trì cuộc chiến. Khánh đã đánh giá quá cao ảnh hưởng của Phật tử tranh đấu đối với bá tánh Phật tử; chỉ một thiểu số nhỏ ủng hộ động cơ của Phật tử tranh đấu. Cuôc khủng hoảng Phật giáo năm 1966 cho thấy nhóm Phật tử tranh đấu có thể bị dẹp mà không làm mất khả năng tiếp tục chiến đấu. Việc đàn áp Phật tử năm 1966 đã vĩnh viễn giải phóng chính quyền khỏi những áp lực Phật giáo nguy hại và tạo điều kiện xây dựng được sự gắn bó quốc gia chặt chẽ hơn ở Nam Việt Nam từ đó về sau.

(Đọc phần I, II)

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline minh họa. Đăng lần đầu trên DCVOnline ngày 16-18/04/2015.

[92]Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, fiche 2000, 9; Newsweek, 8 February 1965.
[93]Một số văn kiện của Ðảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1954–1965) (Hà Nội: Sự Thật, 1985), 211–27.
[94]New York Times, 19 January 1965.
[95]Saigon to State, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[96]Ibid.
[97]Rosenthal, memcon, 17 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon toState, 20 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[98]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “Thich Tri Quang,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29; Saigon to State, 31 January 1965, DDRS, 2000, fiche 9; Saigon to State, 28 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 45; Truong Nhu Tang, A Vietcong Memoir, 95–8; Shaplen, The Lost Revolution, 300; New York Times, 23, 24, and 25 January 1965; CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
[99]Saigon to State, 12 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 24; Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[100]Saigon to State, 25 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 26 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
[101]Manfull, memcon, 4 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 63; Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Saigon to State, 27 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 41.
[102]CIA, “Buddhist leader Thich Tri Quang’s support of the concept of a civilian government,” 29 January 1965, DDRS, 1977, fiche 27B.
[103]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA, “Situation in South Vietnam,” 26 January 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 39.
[104]Saigon to State, 30 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12.
[105]CIA, “Decisions and Discussions at the 31 January Armed Forces Council meeting,” 2 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13.
[106]Saigon to State, 16 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 123; Taylor, Swords and Plowshares, 336; Saigon to State, 16 January 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 12; Critchfield, The Long Charade, 130; Saigon to State, 23 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 154; Saigon to State, 27 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol.2, doc.169; CIA, “Phan Huy Quat,” 29 January 1965, LBJL, International Meetings and Travel, box 29.
[107]Ðại tá Phạm Ngọc Thảo, một chuyên gia hoạch định âm mưu, là một điệp viên của Cộng sản. Việc liệu Hà Nội có lệnh cho Thảo gây ra cuộc nổi loạn này không thì chưa rõ.
[108]INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B.
[109]MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; CIA Vietnam Working Group, “Implications of the Saigon Coup Events,” 20 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14;CIA, “The Situation in Vietnam,” 19 February 1965, DDRS, 1976, fiche 26A; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; INR, “Saigon: Coup in Progress,” 19 February 1965, DDRS, 1994, fiche 229; MACV to NMCC, 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 13; State to Saigon, 19 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 147; Corcoran, “Saigon Coup Situation,” 19 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 45; CIA, “The Situation in Vietnam,” 20 February 1965, DDRS, 1976, fiche 149B; Shaplen, Lost Revolution, 312; Westmoreland, A Soldier Reports, 96–7; John M. Taylor, General Maxwell Taylor: The Sword and the Pen (New York: Doubleday, 1985), 307; MACV to NMCC, 21 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; MACV to NMCC, 22 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
[110]CIA, “The Situation in Vietnam,” 26 February 1965, DDRS, 1983, fiche 91; CIA, “Individuals and Cliques in South Vietnam,” 25 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; McCone, memcon, 25 February 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 165; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 14 April 1965, DDRS, 1979, fiche 239A; Anne E. Blair, There to the Bitter End:Ted Serong in Vietnam (Crows Nest: Allen & Unwin, 2001), 114–16; Critchfield, The Long Charade, 140–2; Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; Shaplen, The Lost Revolution, 344; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
[111]Westmoreland, “Commander’s Estimate of the Situation in South Vietnam,” 26 March 1965, LBJL, Westmoreland Papers, History Backup, box 5.
[112]New York Times, 28 February 1965; Saigon to State, 26 February 1965,NA II, RG 319, Central Files, 1964–1966, box 2952; Hong Kong to State, 19 February 1965, LBJL, NSF, Country File, Asia and the Pacific, China, box 238; Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; Saigon to State, 17 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 202.
[113]Rosenthal, memcon, 27 February 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14.
[114]Saigon to State, 22 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 15.
[115]Critchfield, The Long Charade, 131–2.
[116]Saigon to State, 15 May 1965, NA II, RG 59, Central Files, 1964–1966, box 2959.
[117]CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Saigon to State, 2 March 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 177; New York Times, 27 February and 7 March 1965; Saigon to State, 12 March 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 14; CIA, “The Situation in Vietnam,” 28 February 1965, DDRS, 1978, fiche 31C; Shaplen, Lost Revolution, 319–21.
[118]Saigon to State, 25 May 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 314; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; Saigon to State, 25 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[119]CIA, “The Situation in South Vietnam,” 4 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35A; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18; Saigon to State, 5 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 2, doc. 332; Saigon to State, 26 May 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 17; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 26 May 1965, DDRS, 1979, fiche 244A.
[120]Saigon to State, 12 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[121]Pentagon Papers, vol. 2, 434; CIA, “The Situation in South Vietnam,” 9 June 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 18.
[122]Johnson, Right Hand of Power, 437; Bui Diem, In the Jaws of Victory, 146–7.
[123]Nguyen Cao Ky, Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam (New York: St. Martin’s Press, 2002), 142; CIA, “Military Plans for a Revolutionary Government to Replace the Present Government of Vietnam,” 11 June 1965, DDRS, 1978, fiche 35B; Saigon to State, 17 June 1965, FRUS, 1964–1968, vol. 3, doc. 5; Saigon to State, 21 June 1965, DDRS, 1979, fiche 455B.
[124]memcon, 9 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 11 July 1965, LBJL, NSF, NSC History, DMUSF, box 43; memcon, 14 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 20; Saigon to State, 27 July 1965, LBJL, NSF, VNCF, box 19.

Nguồn: Modern Asian Studies 38, 4 (2004) pp. 749–784. Cambridge University Press, 2004