Vũ Ngự Chiêu: Những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (I)

Nguyễn Vĩnh Châu & Vũ Ngự Chiêu

hcm1HCM và Ðảng CSVN, thoát khỏi “ách thực dân Trung Cổ Pháp” để bị trói buộc vào “ách thực dân mới Hán Cộng.” Khó thể gọi là “giải phóng VN khỏi ách thực dân”.

DCVOnline: Tuy đã có rất nhiều bài và sách viết về ông Hồ Chí Minh, DCVOnline xin giới thiệu đến bạn đọc bài phỏng vấn của tác giả Nguyễn Vĩnh Châu (NVC) với ông Vũ Ngự Chiêu (VNC) đã đăng trên Hợp Lưu số 106, 2009, và trên mạng hopluu.net ngày 5 tháng 11, năm 2010. Ông Vũ Ngự Chiêu đã đề cập và đánh giá một số tư liệu lịch sử liên hệ đến nhân thân và di sản cũng như những sự kiện chung quanh ông Hồ.

Tác giả Nguyễn Vĩnh Châu là cựu phóng viên đài V.O.A. Ông Vũ Ngự Chiêu là một cựu sĩ quan thuộc nhiều binh chủng thuộc quân lực VNCH và viết văn với bút hiệu Nguyên Vũ. Sau 1975, ông Vũ Ngự Chiêu đi học lại và tốt nghiệp tiến sĩ ngành Sử học năm 1984 tại Ðại Học Wisconsin-Madison và tốt nghiệp Luật năm 1999 tại Đại học Houston năm 1999. Vũ Ngự Chiêu dùng tên thật hay bút danh Chính Đạo cho những bài biên khảo lịch sử.

NVC: Thưa ông, theo tài liệu của CSVN thì ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của ông Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc, đã từ quan vì chống đối triều đình. Sự kiện này có đúng không?

Nguyễn Sinh Sắc. Nguồn: OntheNet
Nguyễn Sinh Huy. Nguồn: OntheNet

VNC: Cha ông HCM là Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy, gốc làng Sen (Kim Liên), huyện Nam Ðàn, tỉnh Nghệ An. (Sắc chỉ là tên gọi ngoài đời.) Ðậu Phó Bảng năm 1901, ông Huy không theo học trường Hậu Bổ mà từng làm việc với Bùi Quang Chiêu, rồi bổ làm Thừa Biện Bộ Lại. Sau cuộc nổi dậy mùa Xuân 1908 của dân miền Trung, thăng bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Ðịnh).

Theo tài liệu Pháp, tháng 1/1910, Tri huyện Huy bị ngưng chức vì “nghiện rượu và tàn ác với dân chúng” (đánh chết một nông dân trong cơn say). Ngày 19/5/1910, bị chính thức tống giam vì tội danh trên. Qua tháng 8/1910, được miễn tội, chỉ bị cách chức.

NVC: Theo sự nghiên cứu và những sử liệu mà ông có, xin ông vui lòng trình bày sự nghi vấn về tên thật và ngày sinh của ông Hồ Chí Minh.

VNC: Theo tài liệu Pháp và Việt (như thư xác nhận Côn được nhận vào trường Quốc Học (Huế) ngày 8/7/1908, và bản án tử hình khiếm diện năm 1929 của tỉnh Vinh, bằng Hán ngữ pha chữ Nôm), tên thực Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Côn, với những bí danh như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Xin (?), Nguyễn Ái Quốc, v.v.

Hồ Chí Minh. Nguồn: OntheNet
Hồ Chí Minh. Nguồn: OntheNet

Một số tác giả trong nước tự động sửa thành Nguyễn Sinh Cung [chỉ dựa theo lập luận rằng vì anh là Khiêm].

Năm 1911, trong hai lá thư xin vào trường Ecole Coloniale (Paris) viết từ Marseille, Nguyễn Sinh Côn tự xưng là Nguyễn Tất Thành.

Trong những thư từ, từ 1912 tới 1914, còn có tên “Paul Thành.”

Từ năm 1919, đổi thành Nguyễn Ái Quấc hay Quốc. Theo học giả Nga Anatoli Sokolov, HCM có tất cả trên 150 bí danh khác nhau.

Ngày và năm sinh của HCM cũng có nhiều vấn đề.

Năm 1911, Nguyễn Tất Thành (HCM) tự khai sinh năm 1892.

Ngày 17/5/1945, báo chí VNDCCH công bố ngày sinh nhật 19/5/1890 của HCM và yêu cầu dân chúng treo cờ làm lễ mừng trong 3 ngày. (Cứu Quốc [Hà Nội], 17/5/1945).

Sử gia Huỳnh Kim Khánh cho rằng HCM chọn ngày này để ghi nhớ ngày thành lập Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh tức Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941). Nếu thế, ngày 19/5 cũng có thể để kỷ niệm ngày 19/5/1910, khi cha HCM bị cầm tù, cách chức, khiến HCM phải rời trường Quốc Học ra đi, và khởi đầu sự nghiệp chính trị.

Có dư luận cho rằng HCM đã ngụy tạo ngày sinh 19/5/1890 để bắt dân chúng Hà Nội treo cờ đón tiếp Cao ủy d’Argenlieu sẽ đến thăm chính thức Hà Nội vào ngày hôm sau, 18/5/1945, để bàn thảo về chuyến đi Pháp sắp tới của Hồ. Ðồng thời, cũng để chứng tỏ sự yểm trợ của dân chúng với Hồ và chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Việc này có thể xảy ra, vì HCM là loại người sử dụng mọi phương tiện để đạt mục đích.

NVC: Thưa ông, được biết, ông đã khám phá một sự kiện rất quan trọng là việc ông Hồ Chí Minh nộp đơn xin học trường thuộc địa của Pháp. Xin ông cho biết diễn tiến sự việc này ra sao và ảnh hưởng của công trình khám phá này như thế nào?

Đơn xin học của Nguyễn Tất Thành - Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Ngự Chiêu
Đơn xin học của Nguyễn Tất Thành – Kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Ngự Chiêu

VNC: Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.v., tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v.v.) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v…). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau.

Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ý viết chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ biến các tài liệu trên tờ Ðường Mới, nhưng ông Anh không phải là người phát hiện những tài liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở Aix-en Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết hai sử gia Pháp, tức Hémery và Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này từ trước. Tôi chẳng mấy quan tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu trên trước chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền hình chiến tranh VN cũng sử dụng tài liệu trên.

Một số học giả Mỹ cho rằng khi công bố tư liệu trên, tôi đã có ý muốn discredit [hạ giá] HCM. Nhưng sự thực lịch sử chỉ là sự thực lịch sử. Ðáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). Vì tư tâm hay một lý do nào đó, họ đã gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch [thiên tả] của họ. Ðiều này ảnh hưởng không ít đến công trình nghiên cứu của tôi. Tôi đã không nhận chỗ dạy học tại Ðại học Georgetown, Oat-shinh-tân, (Washington – DCVOnline) vì mất đi lòng trọng vọng một số trong những “học giả”.

Thật khó tin, nhưng có thực, là một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn còn ghi HCM đã rời nuớc năm 1912 để tìm đường cứu nước. Có người còn tuyên bố chẳng cần tìm hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về Ðảng CSVN. “As far as the Americans are concerned,” người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đã quá đủ. “Life goes on!”

NVC: Như ông biết, CSVN cho rằng HCM là nhà tư tưởng vĩ đại, lỗi lạc. Theo sự nghiên cứu của ông sự thật như thế nào?

VNC: Tôi nghĩ HCM là người của hành động hơn tư tưởng. Tư tưởng chỉ đạo của HCM chỉ là “luật kẻ yếu.” Một ấn bản mới của Câu Tiễn tân thời giữa thế kỷ XX. HCM rất lưu loát và rộng rãi trong việc ca tụng người có thể giúp đỡ mình, và không tiếc lời đả kích những đối thủ. Các nhà cung văn không tiếc lời ví HCM như thánh, thần, Phật, Chúa, v.v. Nhưng đọc kỹ những gì Hồ đã viết hay tuyên bố, chỉ có 2 điểm đáng ghi nhận:

Thứ nhất, cho tới thuở trung niên, tức vào khoảng năm 1919-1920, Hồ vẫn tin tưởng ở nhân và dân quyền. Trong 8 điểm đệ trình cho Hội nghị Versailles mùa Hè 1919, HCM tỏ vẻ rất tin tưởng ở những quyền tự do cá nhân, như tự do hội họp, tư tưởng, báo chí, v.v. Trong các thư từ gửi đi từ Hà Nội năm 1945-1946, Hồ vẫn ca ngợi nhân quyền cùng nguyên tắc cao cả của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, v.v. như ánh sáng chỉ đạo.

Thứ hai, từ năm 1922-1923, HCM bắt đầu nói về cách mạng, theo mẫu Marxist-Leninist. Hồ kêu gọi đoàn kết vô sản thế giới, lập liên minh công-nông chống lại liên minh tư bản thực dân-Ki-tô giáo. Tháng 10/1923, tại Ðại Hội Nông dân quốc tế, Hồ đã tố cáo thực dân và nhà Chung cấu kết với nhau để “câu rút giới nông dân nghèo khổ. “Khoảng ba năm sau, trong những bài giảng cho đoàn viên Việt Nam Thanh Niên Kách Mệnh Ðồng Chí Hội ở Canton (Quảng Châu), HCM hô hào phải làm Kách Mệnh. [Xem Ðường Kách Mệnh, in lại trong Văn Kiện Ðảng Toàn Tập [VKDTT], I:1924-1930, 2002:13-82]; David G. Marr, [On Trail, 1981:131n, 374-376] Theo Hồ, “Văn chương và hy vọng” trong tập sách gối đầu giường của cán bộ Thanh Niên chỉ ở trong hai chữ “kách mệnh, kách mệnh, kách mệnh.” [The literary value and hope of this book are confined in two words: Kach menh, Kach menh, Kach menh [“Revolution, Revolution, Revolution.”] Rồi Hồ trích dẫn Lenin: “Không kó lý luận kách mệnh, thì không kó kách mệnh vận động. … Chỉ kó theo lý luận kách mệnh tiền fong, đảng kách mệnh mới làm nổi trách nhiệm kách mệnh tiền fong.”[ 25]

Trong 23 điều nói về tư cách người làm kách mệnh, 16 điều chẳng có liên hệ gì đến duy vật biện chứng. Không thấy nguyên tắc thực tập liên lũy [praxis] của Marx, tức ý muốn làm thử, rồi rút ra kinh nghiệm cho những hành động tương lai [that is the will to act in order to test belief and obtain the additional grounds for further action. (Marr, On Trail, 1981:378)]Hành động với HCM chỉ là thực hiện chủ thuyết Marxist-Leninist hơn là giải quyết những vấn đề theo công tâm “Muốn làm kách mệnh thì phải biết: Tư bản và đế quốc chủ nghĩa nó lấy văn hóa và tôn giáo làm cho dân ngu. Nó làm cho dân chúng nghe thấy cách mạng thì sợ rùng mình. Vậy kách mệnh trước hết phải làm cho dân “giác ngộ.” [23] Tóm lại, tư tưởng HCM chỉ có việc sao chép tư tưởng Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông. HCM thiên về hoạt động hơn tư tưởng.Việc cơ quan tuyên truyền CSVN đề cao tư tưởng HCM có lý do riêng. Nhưng ít khi thực sự vì chính Hồ. Mà vì những mục tiêu giai đoạn của người cầm quyền. Hãy lấy một thí dụ. Năm 1969, Lê Duẩn đã công bố ngày chết của HCM chậm 1 ngày (từ 2/9 tới 3/9), hay sửa lại, cắt xén di chúc của HCM. Một nguyện vọng nhỏ nhoi của HCM là được hỏa táng để phát động phong tục hỏa táng trong nước bị tảng lờ. Nói theo Brocheux, HCM đang bị “cầm tù” trong Lăng Ba Ðình. Thực ra, chẳng có dấu hiệu tôn trọng tư tưởng Hồ nào thiết thực hơn là giúp mang xác ướp của Hồ ra khỏi Lăng Ba Ðình, và hỏa táng.

NVC: Ông có thể cho biết, lý do tại sao ngày nay đảng CSVN lại tung ra chiến dịch học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh?

VNC: Lãnh đạo CSVN có lý do riêng của họ, khó đoán biết. Nhưng một cách tổng quát, có thể nghĩ rằng tinh thần “hủ Marxist-Leninist” khiến cán bộ tuyên giáo đang muốn phỏng theo gương Trung Nam Hải bắt dân Trung Hoa “học tập” kinh nghiệm Hán hóa thuyết Marist-Leninism.” Người ta chỉ đổi đi năm chữ “tư tưởng Mao Trạch Ðông” bằng “tư tưởng Hồ Chí Minh.”

NVC: Theo ông tại sao HCM lại có thể tự viết sách đề cao mình, tự gán cho mình là “Cha già dân tộc” vô cùng lố lăng như trong cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” với bút danh “Trần Dân Tiên”?

Sách của Hồ Chí Minh (bút danh Traadn Dân Tiên). Nguồn: ONtheNet
Sách của Hồ Chí Minh (bút danh Traadn Dân Tiên). Nguồn: OntheNet

VNC: HCM là một người hành động, một cán bộ cách mạng chuyên nghiệp [agitprop]. Việc HCM tự viết sách đề cao mình hay sai người ca tụng mình là việc phụ. Mục đích chính cần thực hiện là ca ngợi một nhân vật HCM chí thiện, chí thần, chí thánh. HCM rất ít khi quan tâm đến những khuôn thước giá trị tư bản, thực dân hay phong kiến mà HCM quyết tâm hủy diệt. Cũng nên thêm là “tư cách” hay “đạo đức” của người Cộng Sản, theo HCM, không giống quan điểm “phong kiến, thực dân”

[Tệ đoan cung văn này, dĩ nhiên, không do cơ quan tuyên giáo Cộng Sản độc quyền. Tại miền Nam, từng có huyền thoại về “điều trần” Nguyễn Trường Tộ, “nhà ngôn ngữ học” Trương Vĩnh Ký, hay “đầy vua không Khả, đào mả không Bài” – Khả, tức Ngô Ðình Khả, cha ruột Tổng thống Ngô Ðình Diệm (1897-1963), xuất thân thông ngôn cho Tây, tích cực trong việc đánh dẹp phong trào Cần vương do Phan Ðình Phùng lãnh đạo, và rồi được Pháp ủy thác giám hộ vua Thành Thái, với chức vụ Ðề đốc kinh thành. Bài là Nguyễn Hữu Bài, cha đỡ đầu Diệm, từng được Pháp cử làm Tổng lý triều Nguyễn từ 1925 tới 1932, trong thời gian ấu vương Bảo Ðại du học ở Pháp. Bàn tay Bài và quan lại Việt từng đẫm máu dân chúng miền Trung trong giai đoạn 1926-1932. Sau này, vào tháng 8/1944, Giám mục Ngô Ðình Thục viết thư cho Toàn Quyền Jean Decoux khoe kể công lao hãn mã của họ Ngô với Bảo hộ Pháp. Năm 1982, tôi nhờ Linh Mục Cao Văn Luận gửi một bản sao thư trên cho cựu Tổng Giám Mục Thục, yêu cầu cho biết ý kiến. Không thấy hồi âm; ít lâu sau nghe tin ông Thục đã chết vì điên loạn ở Mỹ.

Thư ông Ngô Đình Thục
Thư Giám mục Ngô Đình Thục gởi Toàn quyền Jean Decoux
Thư ông Ngo Đình Thục gởi Toàn quyền Decoux
Thư ông GM Ngô Đình Thục gởi Toàn quyền Jean Decoux. Kết quả nghiên cứu của VNC.

Nhưng khi tôi cho công bố tài liệu trên năm 1989, có người cho rằng đó là “tài liệu giả” – hiểu theo nghĩa sau đó có người in trộm tài liệu trên từ báo Lên Ðường (Houston) vào sách họ, nhưng đã cố ý tẩy xóa một vài chi tiết trong thư.]

NVC: Nhiều tác giả ngoại quốc vẫn nhận xét HCM là một người có tinh thần quốc gia, chỉ dùng chủ nghĩa CS để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ. Theo sự tìm hiểu của ông thì sự thật như thế nào?

VNC: Tôi nghĩ cách diễn tả “tinh thần quốc gia” quá trừu tượng, chứng tỏ sự thiếu hiểu biết, đưa đến sự đánh giá sai lầm HCM. Trên cơ bản, HCM là người nuôi tham tâm giành đoạt chính quyền bằng mọi giá và giữ vững độc quyền cai trị. Cũng cần lưu ý là HCM, theo tôi, không là một cán bộ Cộng Sản thuần thành.

Liên hệ giữa Hồ và Quốc Tế Cộng Sản có nhiều vấn đề.

Từ năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã bị QTCS khai tử.

Từ 1933-1938: NAQ phải sống với bí danh mới “Lin” hay “Linov,” không được giao công tác gì. Năm 1935, chỉ được Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập cho 1 ghế dự khuyết trong Ban Trung Ương Chấp Ủy, lo việc phiên dịch các tài liệu của Ðảng CSVN gửi Phòng Ðông Dương của QTCS. Năm 1938, vội vã rời Mat-scơ-va sang Diên An (Trung Hoa) để tránh bị Stalin thanh trừng. Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi từ năm 1943-1944, HCM đã tìm cách móc nối cơ quan tình báo Mỹ. Từ sau chiến dịch Meigo của Nhật–tức cuộc bắt giữ hầu như toàn bộ chính phủ bảo hộ Pháp tại Ðông Dương trong hai ngày 9-10/3/1945–HCM bắt đầu chính thức hợp tác với Phi Ðoàn Cọp Bay 14 của Chennault tại Vân Nam. Và rồi, cơ quan OSS [Tình báo chiến lược] Mỹ từ tháng 3 đến tháng 8/1945 (Frank Tan, thuộc GBT, và rồi Deer Team, OSS, ở Kim Lộng, Tuyên Quang). Sau ngày 19/8/1945, viên chức Mỹ đóng vai đường giây ngoại giao của HCM, giúp chính phủ Hồ tồn tại qua cuộc chiếm đóng của Trung Hoa, và phần nào giúp Hồ thành lập chính phủ liên hiệp với Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, tổ chức bầu cử Quốc Hội, chính thống hóa chế độ VNDCCH hầu ký Tạm ước 6/3/1946 tại Hà Nội, và rồi Modus vivendi ngày 14/9/1946 tại Paris.

Nói cách khác, yếu tố ngoại cường thống trị và ảnh hưởng sự thăng tiến của HCM. Chiêu bài “quốc gia” – HCM tự nhận nhiều lần chỉ thuộc Ðảng Quốc Gia, và từng giải tán Ðảng CSÐD ngày 11/11/1945 – chỉ quan trọng trong nội địa Việt Nam.

NVC: Theo sự nghiên cứu của ông thì ông HCM có trách nhiệm gì trong việc đảng CSVN sát hại các đảng viên những đoàn thể quốc gia trong thời gian những năm 45-46?

VNC: Dù có trực tiếp cho lệnh hay không, HCM phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Mặc dù Võ Giáp cùng Bộ Nội Vụ ra tay tàn sát các đảng phái chống Cộng khi HCM đang ở Pháp, HCM được báo cáo tuờng tận chi tiết những vụ án ngụy tạo xét xử cán bộ Việt Quốc, hay cuộc tàn sát VNQDÐ tại Hà Nội với lý do “bắt tay Pháp làm đảo chính nhân dịp Quốc Khánh 14/7 của Pháp.” Dĩ nhiên, nên lưu ý rằng, năm 1945-1946, HCM chưa hoàn toàn kiểm soát được guồng máy chính quyền. Trong nội bộ Ðảng, HCM cũng không hoàn toàn kiểm soát được phe cực đoan như Trường Chinh Ðặng Xuân Khu và Hạ Bá Cang (Cung?) tức Hoàng Quốc Việt, v.v. Ðó là chưa kể tinh thần địa phương Nam-Trung-Bắc. Nhưng những lời tuyên bố của HCM tại phiên họp kỳ II của Quốc Hội, từ 28/10 tới 9/11/1946, chứng tỏ HCM phê chuẩn việc làm của Giáp cũng như công an Việt Minh.

NVC: Là một nhà sử học, ông nghĩ gì về lập luận cho rằng dù ông HCM có nhiều lỗi lầm nhưng vẫn có công giải phóng VN khỏi ách thực dân?

Hồ Chí Minh và Trần Canh (1950). Nguồn: OntheNet.
Hồ Chí Minh và Trần Canh (1950). Nguồn: Truyen-thong.org.

VNC: Với những tài liệu đã giải mật (tháng 11/2008), không ai phủ nhận được tài năng của HCM trong việc lãnh đạo Ðảng CSVN tới chiến thắng cuối cùng của Ðảng này. Nhưng cách diễn tả “giải phóng VN khỏi ách thực dân” cần xét lại. Sau Thế Chiến Thứ Hai, phong trào giải thực – hiểu theo nghĩa thực dân Trung Cổ – xuất hiện ngay trong tâm ý dân chúng các cường quốc thuộc địa. Thực dân Pháp bị thất bại ở Việt Nam cơ bản là do quốc dân Pháp và Việt đều muốn chấm dứt nó. Thế giới cũng chuyển biến sang một hình thức “trật tự mới” – tức vùng ảnh hưởng của các siêu cường – đặc biệt là Liên Sô Nga và Liên Bang Mỹ, hai “siêu cường” lãnh đạo hai khối vô sản và tư bản. Sự nghiệp chính trị của HCM cho tới khoảng năm 1968-1969 phải được đánh giá trong hệ thống chính trị thế giơi chiến tranh lạnh “lưỡng cực” này. Và, rồi sự chia rẽ giữa Bắc Kinh và Mat-scơ-va [Москва, Moscow – DCVOnline] từ năm 1958, dẫn tới chính sách hòa hoãn đa cực (bao gồm thế tay ba Mỹ-Nga-Trung Cộng tại Ðông Nam Á).

Nên ghi nhớ là ngay đến Ngô Ðình Diệm, năm 1954-1955, cũng khua chiêng, gõ trống cho thành tích “bài phong, đả thực” – nhờ phép lạ Mỹ.

Trường hợp HCM và Ðảng CSVN, thoát khỏi “ách thực dân Trung Cổ Pháp” để bị trói buộc vào “ách thực dân mới Hán Cộng.” Khó thể gọi là “giải phóng VN khỏi ách thực dân.”

(Còn tiếp phần Kết)


DCVOnline minh họa.

4 Comments on “Vũ Ngự Chiêu: Những nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (I)

  1. Có vẻ như TS Vũ Ngự Chiêu cũng mắc phải cái “bịnh thời đại” của rất nhiều trí thức của VNCH cũ, đó là mỗi khi phê phán chế độ cộng sản miền Bắc, lại phải lôi ra những “cái xấu” của những chính khách hay chính quyền VNCH ra nói, như thể ra vẻ ta đây là người công chính!

    Nhưng trong nhiều trường hợp, sự so sánh không cân đối, cũng chẳng công bằng tí nào. Chẳng hạn, trong bài này TS VNC so sánh sự lừa dối trắng trợn của ông HCM đối với cả dân tộc với “tội ác” của người cha ruội và cha nuôi của TT NĐD. Trong khi đáng lẽ, để công bằng VNC chỉ có thể so sánh với chính TT NĐD, đối thủ của HCM mà thôi.

    Tôi nghi ngờ, nguyên do của việc này sâu xa hơn chỉ là bệnh trí thức, một nguyên do không dễ gì để nắm bắt, vì có lẽ nó nằm trong “vô thức”, phức tạo vì trộn lẫn giữa nhiều thứ mặc cảm (mặc cảm trí thức, mặc cảm thua trận, thất bại, tội lỗi, thua kém…).

  2. Trích: “Thế giới cũng chuyển biến sang một hình thức “trật tự
    mới” – tức vùng ảnh hưởng của các siêu cường – đặc biệt là Liên Sô Nga
    và Liên Bang Mỹ, hai “siêu cường” lãnh đạo hai khối vô sản và tư
    bản”

    Cái trật tự mới với sự xung đột của hai khối cộng
    sản, tư bản thì lại bắt nguồn từ đề cương của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản
    chủ trương dùng chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa
    Cộng Sản. Đó là cái đề cương mà ông Hồ ngồi trong phòng đọc và mừng rỡ
    nói to lên (như lời ông Hồ kể).

    Nhưng mà đứng vào phe Cộng Sản để
    tranh đấu giành độc lập thì sự độc lập biến thành vấn đề giả, mà vấn đề
    thật là chủ nghĩa Cộng Sản đúng sai, hay dở ra sao mà đem nó về áp dụng
    cho đất nước. Gọi vấn đề độc lập là vấn đề giả vì khi chấp nhận gia
    nhập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản và đứng hẳn vào khối Liên Xô thì sự độc lập
    chỉ là tương đối, cũng như các nước đứng về phe Mỹ trong khối tư bản
    cũng chỉ là độc lập tương đối.

    Ngay cả các nước Tây Âu, sau thế
    chiến 1945 cũng chỉ là độc lập tương đối vì họ nằm trong khối NATO và
    nhận sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ thì họ phải chịu sự chi phối của Mỹ ở
    mức nào đó. Nước Pháp đã rút ra khỏi NATO để được độc lập hơn và việc
    Pháp quay trở lại NATO được người Pháp bàn cãi về cái lợi cái hại của nó
    khi Pháp phải chịu mất bớt độc lập khi gia nhập NATO. Các nước Bắc Âu
    không nằm trong khối tư bản dưới ảnh hưởng của Mỹ và khối CS dưới ảnh
    hưởng của Nga là các nước có độc lập. Ngay cả Singapore, Mã Lai cũng
    không thật sự hoàn toàn độc lập vì vẫn chấp nhận nằm trong khối Thịnh
    Vượng Chung của Anh. Nhưng sự thành công về kinh tế của Singapore và Mã
    Lai cho thấy là mặc dù không có sự độc lập hoàn toàn nhưng các nước này
    cũng vẫn đem lại cơm no áo ấm cho dân. Còn Việt Nam cộng sản thì đứng
    vào khối CS thì cũng vẫn không có độc lập hoàn toàn mà lại không đem lại
    cơm no áo ấm cho dân.

    Vấn đề thật lại là những người lãnh đạo
    có thật sự quan tâm đến việc phát triển kinh tế để đem lại no ấm cho dân
    hay không hay là cứ nhân danh độc lập mà lao vào hết cuộc chiến tranh
    này đến cuộc chiến tranh khác.

  3. Trích: “Thế giới cũng chuyển biến sang một hình thức “trật tự
    mới” – tức vùng ảnh hưởng của các siêu cường – đặc biệt là Liên Sô Nga và Liên Bang Mỹ, hai “siêu cường” lãnh đạo hai khối vô sản và tư bản”

    Cái trật tự mới với sự xung đột của hai khối cộng sản, tư bản thì lại bắt nguồn từ đề cương của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản chủ trương dùng chiêu bài giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa
    Cộng Sản. Đó là cái đề cương mà ông Hồ ngồi trong phòng đọc và mừng rỡ nói to lên.

    Nhưng mà đứng vào phe Cộng Sản đểtranh đấu giành độc lập thì sự độc lập biến thành vấn đề giả, mà vấn đề thật là chủ nghĩa Cộng Sản đúng sai, hay dở ra sao mà đem nó về áp dụng cho đất nước. Gọi vấn đề độc lập là vấn đề giả vì khi chấp nhận gia nhập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản và đứng hẳn vào khối Liên Xô thì sự độc lập chỉ là tương đối, cũng như các nước đứng về phe Mỹ trong khối tư bản cũng chỉ là độc lập tương đối.

    Ngay cả các nước Tây Âu, sau thế chiến 1945 cũng chỉ là độc lập tương đối vì họ nằm trong khối NATO và nhận sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ thì họ phải chịu sự chi phối của Mỹ ở mức nào đó. Nước Pháp đã rút ra khỏi NATO để được độc lập hơn và việc Pháp quay trở lại NATO được người Pháp bàn cãi về cái lợi cái hại của nó
    khi Pháp phải chịu mất bớt độc lập khi gia nhập NATO. Các nước Bắc Âu không nằm trong khối tư bản dưới ảnh hưởng của Mỹ và khối CS dưới ảnh hưởng của Nga là các nước có độc lập. Ngay cả Singapore, Mã Lai cũng không thật sự hoàn toàn độc lập vì vẫn chấp nhận nằm trong khối Thịnh Vượng Chung của Anh. Nhưng sự thành công về kinh tế của Singapore và Mã Lai cho thấy là mặc dù không có sự độc lập hoàn toàn nhưng các nước này cũng vẫn đem lại cơm no áo ấm cho dân. Còn Việt Nam cộng sản thì đứng vào khối CS thì cũng vẫn không có độc lập hoàn toàn mà lại không đem lại
    cơm no áo ấm cho dân.

    Vấn đề thật lại là những người lãnh đạo có thật sự quan tâm đến việc phát triển kinh tế để đem lại no ấm cho dânhay không hay là cứ nhân danh độc lập mà lao vào hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác.

  4. Trích: “Từ 1933-1938: NAQ phải sống với bí danh mới “Lin” hay “Linov,” không được giao công tác gì”.

    Câu này đúng phần “nổi”: đó là NAQ hoàn toàn biến mất trên màn “radar” của CSQT, nhưng tác giả hoặc không biết hoặc dấu đi vấn đề “tại sao”!

    Chuyện như thế này: đồng lúc với việc NAQ được triệu hồi về Mốt-cu, Hà Huy Tập, quyền Tổng Bí Thư đảng CSVN, đã gửi một báo cáo mật về TƯ (Mốt-cu) than phiên về những hành vi vô kỷ luật của NAQ và nhất là việc tên tuổi và hình ảnh của NAQ) nằm chình ình trong hồ sơ của sở Mật Thám Pháp, cùng với (điệp viên nhị trùng – làm cho Pháp lẫn cho “cách mạng”) Lâm Đức Thụ.

    Hà Huy Tập cũng đề nghị với TƯ CSQT là phải bắt NAQ phải “thành khẩn khai báo” (kiểm thảo) về những tư tưởng và việc làm của mình. Nếu ai biết một chút về cách “tổ chức” của CS, nhất là trong thời kỳ cao điểm của cuộc thành trừng nội bộ của CSQT lúc đó, thì lời buộc tội đó phải tương đương với đề nghị “thanh trừng” hoặc tử hình! Làm sao NAQ/HCM thoát được bản án đó là chuyện vẫn năm trong bóng tối, nhưng không thể nào NAQ có thể chỉ bị “giáng chức” (cho làm thông dịch viên và huấn luyện viên cho những cán bộ CSVN mới được gửi qua Liên Xô học tập). Theo phân tích của một số nhà nghiên cứu, thì ít nhất NAQ/HCM phải nhận những công tác “tuyệt nguy hiểm” mới có thể chứng minh được sự trung thành tuyệt đối với thượng cấp. Công tác “tuyệt nguy hiểm” là gì thì có lẽ dễ nghĩ ra thôi!